- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Năm 1964, ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Tháng 8-1964, ông vào bộ đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ
- Với quan niệm “ chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống” , Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Tác phẩm chính: Vầng trăng quầng lửa ( 1970 ); Thơ một chặng đường ( 1971); Ở hai đầu núi ( 1981 ); Nhóm lửa ( 1996 )
2.Tác phẩm
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970. Chùm thơ đã khẳng định giọng thơ riêng của của ông. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “ Vầng trăng quầng lửa” ( 1970 ) của tác giả.
- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo - những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.
II.Phân tích bài thơ
1.Nét độc đáo trong nhan đề bài thơ
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa, nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ và độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai chữ đó cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái khốc liệt của chiến tranh, mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.
2.Hình ảnh những chiếc xe không kính
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vấn băng ra chiến trường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa được vào thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực ( chiếc xe tam mã trong thơ của Puskin, con tàu trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ). Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Cái hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ.
3.Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ
- Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.
- Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm những ấn tượng cảm giác của người chiến sĩ lái xe trên chiếc xe không kính. Với tư thế “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài :
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đườg chạy thẳng vào tim
Câu thơ đã diễn tả được cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh. Qua khung cửa đã không còn kính chắn gió, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với sao trời, cánh chim cũng như ùa vào buồng lái. Nhà thơ đã diễn tả chính xác cái cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe không kính.
- Người lái xe hiện ra với những nét tính cách thật cao đẹp
+Tư thế của họ ung dung, hiên ngang mới đàng hoàng làm sao. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
+Thái độ bất chấp khó khăn gian khổ nguy hiểm. Tình cảm của người chiến sĩ lái xe trên những chiếc xe không kính được miêu tả thật chân thực: bụi phun tóc trắng, mặt lấm, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời. Nhưng người chiến sĩ chấp nhận thử thách như một tất yếu: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Với tinh thần chấp nhận thử thách, họ hết sức bình thản: chưa cần rửa, chưa cần thay. Cái cách phì phèo châm điếu thuốc và nhìn nhau mặt lấm cười ha ha thì sự bình thản đã đạt đến mức vô tư lự một cách thật trẻ trung! Cái thái độ phớt tỉnh…lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi cũng rất trẻ trung. Quả là tiếng thơ, lời thơ của một thế hệ trẻ tuổi. Khi viết bài này nhà thơ chưa đến độ tuổi ba mươi ấy đã thực sự khơi một nguồn cảm xúc trẻ trung, tinh nghịch cho thơ cách mạng, kháng chiến...