Vì vậy, hang ngày ông thường sang bên gian nhà bác Thứ khoe về làng mình để phần nào vơi đi nỗi nhớ ấy và cugnx là cho sướng cái tai, cho đỡ nhớ. Và như thế, khoe làng đã trở thành một thói quen,một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của lão nông thuần phác ấy. nhưng ta có thể nhận thấy rằng, đằng sau cái thói quen tưởng chừng như ngớ ngẩn ấy lại là cả một tấm lòng chân thực của ông đối với làng, là cả tình yêu thiêng liêng cao quý và niềm tự hào chân chính của ông Hai.
Với ông Hai cũng như mọi người dân Việt Nam, yêu làng gắn liền với yêu nước, gắn bó với kháng chiến với cụ Hồ. Nơi tản cư xa quê, không được tham gia cách mạng nhưng ông Hai vẫn thường xuyên vào phòng thông tin nghe tình hình, tin tức kháng chiến. Bước vào gian phòng ấy hôm nay, ruột gan ông lão như múa cả lên vì nghe được nhiều tin hay, nóng bỏng. Nào là “em bé trong đội tình nguyện xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm cờ”, “đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người bán hang đã bắt được tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ”…rất nhiều tin kháng chiến đáng mừng, đáng khâm phục! người dân Việt trong mưa bom bão đạn đã dũng cảm vượt lên khó khăn.
Khi nghe tin của đám người tản cư mới lên là làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai đã vô cùng sửng sốt, thất vọng. Ông như không còn tin vào chính mình nữa vậy. Từ đó, đã ba, bốn ngày ông không dám bước chân ra khỏi nhà, chỉ dám lẳng lặng nghe ngóng binh tình lên ngoài ra sao? Hẳn phải là một con người giàu lòng tự trọng, ông Hai mới có những biểu hiện như vậy. Mặc dù không ai biết rằng ông là người làng chợ Dầu lên ngoài mấy người sống cạnh nhà ông nhưng ông lão vẫn rất hỏ thẹn, vì yêu làng nên khi được tin dữ ấy,ông Hai đã trằn trọc không ngủ yên. Cái tin ấy đã trở thành nỗi ám ảnh day dứt lớn. Nhìn lũ trẻ con mà ông thấy thương “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Nước mắt ông lão cứ trào ra rồi ông rít lên trong nỗi đau khổ, uất ức vì nhục “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước nhục nhã thế này?
Ông hai đã từng nhớ làng chợ Dầu đến da diết, từng ao ước trở về làng mãnh liệt nhưng bây giwof, ông thực sự thất vọng về ngôi làng ấy. ông đã xác định được, về làng tức là chịu quay đầu làm nô lệ cho Tây, về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hộ. Ông nói “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu làng đã thống nhất, bao trùm lên tình yêu đất nước. Lúc này, yêu làng nhất là phải bỏ làng, ông chỉ yêu làng khi làng làm kháng chiến theo cụ Hồ.
Dù đã xác định như vậy nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ cái tình đối với ngôi lang, trong cái bế tắc và sự than khổ tủi nhục, ông chỉ còn biết giãi bày tâm sự với thằng Húc con ông để chứng minh cho tấm lòng trong sạch của mình.
Ông hỏi đứa con ngây thơ của mình “thế nhà con ở đâu? Con có thích về làng không?” Lời nói cất lên mà nghẹn ngào, nhuốm vị đắng cay, tủi hổ. Mặc dù ngôi làng theo tây rồi nhưng ông vẫn muốn nhắc con phải nhớ về cội nguồn, quê cha đất tổ của mình: “…nhà ta ở làng Chợ Dầu”.
Nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên 2 má, ông nói thủ thỉ: “thế con ủng hộ ai?”…Ủng hộ cụ Hồ con nhỉ? Ông nhắc con phải noi gương cụ Hồ Chí Minh thể hiện tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng, Ông lão nói nhue để ngỏ lòng mình, minh oan cho mình “cụ Hồ trên đầu trên cổ soi cho bố con ông” Những lời tâm sự với đứa con thực chất là lời tự nhủ với lòng mình, tự giãi bày nỗi lòng mình. Qua đó cho thấy tình yêu sâu nặng của ông đối với ngôi làng, thật sâu xa bền vững và đáng trân trọng biết bao!
Ngay khi nghe tin làng cải chính, cả ngôi làng chợ Dầu ấy không theo Việt gian mà đã tham gia chiến đấu rất anh dũng thì với một người yêu làng như ông Hai hẳn là không khỏi vui sướng vô hạn “cái mặt ông bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy” và ông còn chia quà cho các con. Dường như lúc này, tính khoe làng lại bừng cháy trong lòng ông, vẫn cái dáng điệu quen thuộc ngày nào, ông lật đật đi thẳng sang bên gian bác Thứ, chưa đến bậc cửa ông đã vội báo ngay “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ- Đốt nhẵn”, rồi lại đi tiếp khoe với ông chủ nhà, mọi người tin đó.
Có thể nói nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng được tình huống đi ngược với tâm lí người thường. nhưng đặt nhân vật vòa trường hợp ấy, nhà văn có dụng ý muốn thể hiện tình cảm yêu làng đến mãnh liệt của người nông dân thuần phác như ông Hai.
Nhà ông bị đốt nhẵn nhưng ta không thấy điều gì lưỡng lự trong lời nói ấy mà ông cứ múa cả chân tay lên mà khoe với mọi người. cái tin ấy như có phép hồi sinh khiên ông vui sướng hả hê. Bởi đó là một bằng chứng hùng hồn chứng minh rằng ông không phải là dân làng Việt gian, làng Dầu vẫn là làng kháng chiến. Cái tin ấy đã giúp ông rũ bỏ mọi bế tắc tủi nhục. Ngôi nhà ruộng vườn là tài sản quý giá tích cóp từ bao đời mới tạo dựng lên được nay bị đốt sạch mà ông vẫn thấy vui bởi lẽ, nhà ông không còn nhưng thay vào đó là danh dự của làng được bảo toàn, trong sự cháy rụi của nhà ông, làng ông lại là một sự hồi sinh của làng Dầu khác, là cái làng ông đã từng yêu, cái làng đã từng anh dũng, kiên cường theo cách mạng rất đáng tự hào. Niềm vui ấy thể hiện tấm lòng yêu nước sẵn sang hi sinh tất cả cho kháng chiến. Quả là niềm vui của ông Hai chất phác, vô tư và ngời sáng lòng yêu nước cao cả.
Và như thế trang truyện khép lại nhưng vẫn luôn để lại trong ta những dư âm sâu sắc về một tình yêu làng da diết như ông Hai. Tình yêu l