Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo. Quê tôi có bao điều, bao cảnh sắc thiên nhiên đáng nhớ. Từ những con đường làng đất đỏ đến những rặng tre chạy dọc bên bờ sông, tữ những đứa trẻ thơ lớn lên trong vòng tay âu yếm của mẹ đến những hình dáng người bà trên triền đê thương nhớ. Có lẽ bởi từ đó tôi càng thêm thấu hiểu những trang thơ của Đỗ Trung Quân:
‘’Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người’’
Qua đó tôi càng them yêu quý quê hương mình hơn, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi để giờ đây trưởng thành, vẫn không phút nào tôi nguôi nỗi nhớ nhung, yêu mến quê tôi. Một lần nữa, tình cảm ấy lại giấy lên trong long tôi những bồi hồi, lắng sâu khi đọc truyện ngắn Làng của Kim Lân. Nhưng có lẽ ấn tượng để lại trong tôi nhiều rung cảm mạnh mẽ nhất đó chính là nhân vật Ông Hai với một tình yêu quê hương da diết, mãnh liệt.
Bằng sự gắn bso và vốn am hiểu sâu sắc của mình về cuộc sống của người nông dân, nhà văn đã miêu tả một cách chính xác và rất tinh tế diễn biến tâm lí của nhân vật, đồng thời như đưa ta về với hình ảnh của làng quê xưa với những gì mọc mạc, chân thật và bình dị nhất về con người, về cuộc sống giản dị của một thời.
Tình yêu quê hương là tình cảm truyền thống của con người Việt Nam. Với họ, quê hương đã trở thành mảnh tâm hồn gắn bó, ăn sâu vào tiềm thức không thể quên. Người dân Việt đi xa vẫn hướng trái tim mình về quê cha, đất mẹ. Nó đã là máu thịt, là linh hồn và ông Hai cũng không nằm ngoài trong số họ. Tâm trí ông luôn ẩn hiện, ôm trọn hình bóng nơi làng quê., ngôi làng “Chợ Dầu” nhỏ bé mà tinh thần hăng hái, đầy nhiệt huyết cách mạng.
Trước cách mạng, ông Hai khoe làng rất nhiệt tình và hào hứng. Ông luôn mang trong mình niềm tự hào lớn về một ngôi làng giàu đẹp, cái gì cũng nhất vùng. Một ngôi làng như thế khiến ông rất say mê những câu chuyện kể như lời mời gọi tất cả đến thăm, ở đó có “đường làng lát bằng đá xanh, trời mưa gió, đi từ đầu làng đến cuối làng không sợ bùn dính gót chân”, là những nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”. Bao lời kể của ông như thấm vào tim ta những niềm hứng khởi, như muốn trở về với làng “Chợ Dầu” ngày xưa ấy. Dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi nói về nơi nuôi dưỡng mình, chốn quê thân thuộc “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”. Ông tự hào về làng mình, hãnh diện khi kể về cái “phòng thông tin” tuyên truyền sáng sủa, chiều chiều loa gọi thì cả làng nghe thấy. Độc giả như bị cuốn hút, tò mò về làng ông. Ngôn ngữ vừa mộc mạc, bình dị thể hiện rõ những nét tâm trạng của người nông dân, nhà văn đã cho ta thấy rõ những tình cảm yêu làng da diết của ông Hai. Đặc biệt, khi ông khoe về cái sinh phần của cụ cố Thượng “vườn hoa,cây cảnh nom như động”. Tính khoe làng của ông Hai trong những ngày trước cách mạng thật sôi nổi, háo hức. Nó xuất phát từ niềm kiêu hãnh và lòng tự hào, gắn bó tha thiết về làng quê của ông Hai.
Sau cách mạng, tình cảm ấy càng trở nên sâu đậm hơn. Khi kháng chiến thành công, làng quê cũng có nhiều đổi mới và tình yêu làng của ông Hai cũng phần nào có sự đổi mới quan trọng.
Được sự giác ngộ trong chiến đấu, ông không còn đả động đến cái sinh phần của viên tổng đốc như ngày trước nữa vì đó là cái lăng đã khiến cho nhiều an hem trong làng phải khổ sở phục dịch. Giờ đây, hình ảnh ngôi làng trong tiềm thức của ông đã khác xưa. Ông khoe những điều giản dị mà đầy ý nghĩa. Không khí trong những ngày làm kháng chiến cứ sôi động, thúc giục lòng ông. Phong trào xây dựng làng chiến đấu rất náo nhiệt và sôi nổi. Ông lại nhớ về những ngày “tập quân sự”, những tiếng hô “Nghiêm ạ…”cứ vang lên trong đầu ông, những buổi đào hào, đắp ụ cùng bao an hem đồng chí.
Quê hương, bản quán nơi gắn bó máu thịt của mình làm sao ta có thể quên? Có lẽ bởi thế, tinh thần lão nông rất phấn trấn, kể chuyện về làng ông “ngồi vén quần lên tận bẹn”. Yêu làng, không đành ngồi nhìn kẻ thù giày xéo, xâm lăng, ông đã ra nhập phong trào “từ hồi kì còn bóng tối”. ông tình nguyện, hăng hái ở lại làng, ông hối hả công việc bận rộn tối mặt “công việc như lửa đốt dầu” không thể lên nơi tản cư ngay được. Ông lão say sưa kể chuyện, khoe về những thành tích của làng và thậm chí còn say sưa hơn nữa khi trong đó có cả công lao của mình. Tự hào về khí thế cách mạng sôi động của làng, ông Hai rất hứng khởi, vui sướng, nhiệt tình tham gia và xung phong bảo vệ làng.
Khi bà Hai lên đón ông đến nơi tản cư, ông lão không đi và tự nghĩ “mình sinh sống nơi này từ tấm bé đến giờ…công việc là công việc chung, chứ của riêng mình ai? Ông cho rằng, mình cần ở lại làng, giúp làng làm kháng chiến” cái lúc hữu sự như thế này mình lại bỏ làng đi thì còn ra thế nào nữa”.
Nhưng vì hoàn cảnh, vì vợ con mình, ông đã phải dứt áo ra đi nơi tản cư mặc dù trong lòng vẫn còn nhiều lưu luyến, day dứt, không muốn xa cái làng ấy.
Sống ở nơi xa quê, xa nhà nhưng tâm trí ông Hai, trái tim ông vẫn luôn hướng về quê hương, ngôi làng chợ Dầu “tinh thần sôi nổi”.
Ông Hai suốt ngày chỉ buồn bực, hơi một tí là gắt vì chán cảnh “ăn nhờ ở đậu”. nhưng cũng đành vậy, biết làm thế nào?. Hình ảnh ngôi làng luôn là điểm tựa tâm hồn cho tấm lòng ông. Khi đi làm về mệt, buổi trưa nắng hè oi ả, tưởng chừng như ông vắt tay lên trán và sẽ ngủ tiếp đi nhưng không, ngôi làng Dầu với bao hình ảnh đẹp lại sống dậy trong tâm trí ông. Nhớ về những ngày kháng chiến “đào hào đắp ụ”, lòng ông lại náo nức, chân tay như múa cả lên. Để rồi ông phải bật ra tiếng lòng mình “Ồ! Sao mà độ ấy vui thế?” ta cảm thấy thật đáng trân trọng tình cảm của lão nông tuy già, cao tuổi, nhưng tinh thần vẫn sôi nổi, sục sôi phong trào yêu nước. ông muốn về làng quá, nỗi mong chờ, nhớ nhung luôn thường trực khôn nguôi....